. Chuyển tâm một chỗ việc gì cũng xong (kinh Lương Hoàng Sám)
10 happy-vesak-day-illustration

Vui thay Đức Phật ra đời. Cõi người an lạc, Cõi Trời hân hoan!

.ĐẠO PHẬT LẤY SỰ DIỄN LÝ, CHO NÊN Ý NGHĨA RẤT THÂM SÂU. NGƯỜI NGOÀI CHƯA HIỂU CHỚ VỘI BÌNH XÉT. RIÊNG NGƯỜI CON PHẬT THÌ CẦN PHẢI PHƯỚC HUỆ SONG TU ĐỂ HIỂU CHO THẤU ĐÁO. "....TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN : Chúng sanh vô biên - thệ nguyện độ. Phiền não vô tận - thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng - thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng - thệ nguyện thành.

PHƯỚC HUỆ SONG TU

 


.Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh. Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh. Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh. "

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2024

Sáng suốt trước tác động của truyền thông đối với cộng đồng Phật giáo Việt Nam ( 3 )

 


3.4.    Từ hiện tượng “Minh Tuệ” và cái nhìn sai lạc về Phật giáo.


      Khi “Sư Minh Tuệ” thực hiện bộ hành đã nhiều có luồng ý kiến cho rằng người tu sĩ phải tập theo hạnh đầu đà mới là đúng tinh thần của Đức Phật, mới thành Phật và gọi “Sư Minh Tuệ” là “Phật Minh Tuệ”. Những ý kiến đó hoàn toàn không xác đáng. Vì sao? Trong các vị đại đệ tử của Phật, chỉ có ngài Ca-diếp là hành hạnh đầu đà. Các vị còn lại, ví dụ như ngài Ananda, ngài Upali, ngài Sariputra đều không hành hạnh đầu đà. Vậy các ngài có phải là chư Thánh Tăng hay không? Chư vị Tổ sư của chúng ta đâu phải ai cũng hành hạnh đầu đà? Các Tổ thuộc dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường, Vô Ngôn Thông, Trúc Lâm Yên Tử, Lâm Tế, Tào Động, Liễu Quán… ít nhiều đều có trú xứ, trụ trì một hoặc một số ngôi tự viện. Vậy mà các ngài vẫn là những bậc giác ngộ đáng kính, pháp các ngài giảng vẫn là chân Phật pháp.


     Đạo Phật tuy không có giáo điều như các tôn giáo khác nhưng tinh thần khế lý khế cơ để phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán của từng quốc độ là một điều cốt lõi để duy trì Phật giáo cho đến tận ngày nay. Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo ít nhiều thay đổi để phát triển phù hợp căn tính của người dân nơi đây. Hình thức nhập thất mà trong đó hành giả tu tập chỉ có vật dụng tối thiểu nhất (như mùng tránh muỗi, chăn, bát, nước uống), cắt đứt mọi liên hệ với xã hội, chuyên tâm thiền định, trì niệm danh hiệu Phật, đó là ví dụ điển hình về một trong những phương pháp tu tập của chư Tổ tại quốc độ phương Đông. Phật giáo du nhập qua vùng ôn đới như các nước Tây Âu và Bắc Mỹ thì hàng đệ tử của Đức Phật có thể thực tập hạnh tam y, hạnh ở rừng trong điều kiện mùa đông lạnh giá băng tuyết chăng? 


     Từ hiện tượng “Sư Minh Tuệ” dư luận xã hội đã phê phán chư Tăng ngày nay trụ tại chùa to Phật lớn không thực hành hạnh Đầu-đà như “Sư Minh Tuệ” là hoàn toàn vô căn cứ. Có người cho rằng Tăng Ni ngày nay ngồi mát ăn bát vàng…cùng rất nhiều lời miệt thị khác qua so sánh hiện tượng “Sư Minh Tuệ”. Chúng ta biết rằng ngay từ thời Đức Phật, ngài đã thọ nhận và cho phép Tăng đoàn sử dụng các ngôi tinh xá do các Quốc vương, các trưởng giả xây cất cúng dường. Câu chuyện ông Trưởng giả Cấp Cô Độc trải vàng mua đất xây dựng tinh xá Kỳ Viên để cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn vẫn còn nguyên giá trị. Các tinh xá là nơi chư Thánh Tăng giảng pháp, tiếp nhận đồ chúng và tu tập. Theo dòng thời gian biến chuyển các đoàn du tăng phát triển cùng với những ngôi tự viện. Nếu không có các ngôi chùa, Tăng chúng ngày càng đông đảo không thể tu học, đặc biệt là ở những nơi ít rừng rậm như tại các thành phố. Không có Tăng chúng, không có giảng đường, không có cơ sở vật chất, Phật tử sẽ không nhận được pháp nhũ từ Tăng bảo. Như vậy có thể thấy ngoài mối quan hệ trong Tam Bảo, sự liên đới giữa bốn chúng đệ tử Phật là không thể tách rời trong ý nghĩa hoằng truyền Pháp của Phật. Thiết các điều kiện vật chất của thế gian cần được sử dụng để hỗ trợ Tam Bảo, duy trì đạo pháp để hướng con người đến con đường đạo đức là việc làm có ý nghĩa thiết thực.

     Chúng ta cần khẳng định rằng tu tập 13 pháp đầu đà là một trong nhiều phương pháp tu tập, ai thích hợp với phương pháp tu tập nào thì tu theo phương pháp ấy mà tu tập phải phù hợp hoàn cảnh thời đại. Cái gốc của đạo là tâm bồ đề, đích đến của đạo là thoát khổ, đường đi đến đạo nhanh hay chậm do công phu trì giới, tu định, chứng tuệ. Còn chấp lấy một phương pháp cho rằng đó là phương pháp duy nhất đạt đến quả vô sanh. Như vậy là lìa khỏi trung đạo và sa vào cực đoan.


Đức Phật đã từng tu khổ hạnh suốt 6 năm đến mức sức khỏe lụi tàn như ngọn đèn cạn dầu mong manh trước gió và suýt phải bỏ thân mạng. Sau đó ngài nhận ra sự khổ hạnh chẳng phải con đường giải thoát khỏi khổ đau. Và ngài tìm thấy một lối đi tránh cả hai cực đoan của thế gian: Không chạy theo ngũ dục và cũng không hành hạ bản thân. Con đường Trung đạo mà Phật dạy dựa trên sự cân bằng của thân và tâm, không triệt tiêu khoái lạc và khổ hạnh mà kiềm hãm, hạn chế tối đa sự thèm khát hoặc ép xác. Thực hành con đường Trung đạo để nhận thức về thế giới: Lìa bỏ sự chấp thủ cho rằng thế giới là tất cả đều có (thường), hay thế giới này tất cả đều không (đoạn).


     Đức Phật đề cao việc thực hành Trung đạo và cần đi theo Thánh đạo Tám ngành tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và chánh tuệ. Sự tu tập viên mãn theo con đường này sẽ giúp hành giả khám phá ra cái khổ, nguồn gốc cái khổ và khi khổ diệt, Niết bàn hiện tiền.


     Còn những hý luận của thế gian nhằm phủ nhận, hạ bệ giá trị của Đạo Phật, của Tăng đoàn, thực sự không đưa lại lợi lạc trên con đường tu tập của chúng ta. Đối với các hý luận ấy, chúng ta nhận rõ đó là do vọng tưởng của con người: chấp pháp còn khổ, huống hồ là chấp vào điều phi pháp. Người có chánh kiến và đủ niềm tin vào giáo pháp của Phật sẽ bỏ qua những hý luận qua hiện tượng “Sư Minh Tuệ”.

3.5.    Quyền tự do tôn giáo, quyền tu tập và hệ thống pháp luật về tôn giáo.


    Chúng ta biết rằng tôn giáo thì có giáo điều, Phật giáo thì có giới luật do Phật chế định và tổ chức tôn giáo thì phải có giáo luật quy định để hoàn thiện tổ chức và xây dựng con người trong tổ chức theo một quy chuẩn trật tự nhất định. 


    Cũng vậy bất cứ một quốc gia nào cũng có hệ thống pháp luật rõ ràng để ổn định xã hội và mỗi công dân của đất nước nào đều phải tuân thủ Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Tại Việt Nam Chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước được cụ thể hóa, xin sơ lược một vài điểm sau:


- Các tôn giáo được hoạt động tự do trong khuôn khổ của hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.


- Một tôn giáo muốn hoạt động phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn theo quy định như: có tín đồ tự nguyện tin theo, có giáo sĩ hướng dẫn việc đạo, có tôn chỉ, mục đích hoạt động không trái với pháp luật Nhà nước Việt Nam; có hệ thống giáo lý, giáo luật phù hợp; có nơi thờ tự đảm bảo vệ sinh, an toàn; không hoạt động mê tín dị đoan làm tổn hại đến tinh thần, vật chất, sức khỏe của tín đồ và làm ảnh hưởng đến những quyền cơ bản của người khác và phải đăng ký hoạt động với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. 


   Những tổ chức không đáp ứng được những yêu cầu trên đều không được hoạt động. Đây là quy định đối với những tổ chức tôn giáo, còn tín đồ hoàn toàn tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại gia đình hoặc nơi thờ tự hợp pháp.


- Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt có tôn giáo hay không. Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất kỳ một công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, bất kể công dân đó theo tôn giáo hay không theo tôn giáo; xử lý bằng pháp luật mọi hành vi lợi dụng, mạo danh tôn giáo để gây rối trật tự xã hội, làm phương hại đến an ninh quốc gia, tổn hại tinh thần vật chất, sức khỏe của công dân.


- Các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước khuyến khích tham gia các hoạt động từ thiện, giáo dục, nhân đạo theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.

- Các tôn giáo được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, được cử người đi đào tạo ở nước ngoài.


     Hệ thống pháp luật về tôn giáo trước đây áp dụng Nghị định 92/2012, đến năm 2018 thì luật tín ngưỡng tôn giáo có hiệu lực và áp dụng cho đến nay. Chính sách của Đảng nêu rõ tại Nghị quyết số 25 của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX (2003) về công tác tôn giáo khẳng định rõ ràng nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường đúng pháp luật. 


    Chính sách của Đảng và hệ thống pháp luật về tôn giáo luôn tôn trọng và đảm bảo quyền do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Tuy nhiên mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; gìn giữ độc lập, chủ quyền quốc gia. Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại nhà nước, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật. 

3.6.    Vai trò quản lý điều hành của Tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam.


     Từ ngày thành lập Giáo hội đến nay hơn 40 năm, tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam hình thành trên ý chí và nguyện vọng của Tăng Ni, tín đồ Phật tử cả nước. Đó chính là sự hợp nhất từ 09 hệ phái để thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức nhưng luôn tôn trọng tính đặc thù và pháp môn tu hành của từng hệ phái.


    Vai trò của Giáo hội là quản lý chư Tăng Ni và điều hành mọi hoạt động Phật sự của toàn hệ thống Giáo hội, bao gồm cả các tự viện và chư Tăng Ni thông qua Hiến chương và các Quy chế của các Ban, Viện; Quy chế cho Giáo hội cấp địa phương, đặc biệt là phải tuân thủ quy định của pháp luật. Trong quản lý bao gồm cả quản lý về hệ thống tổ chức và quản lý về con người của tổ chức Giáo hội.


    Qua hiện tượng “Minh Tuệ” một số dư luận đã phủ nhận vai trò quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vai trò của thầy Bổn sư đối với người xuất gia điều này hết sức lệch lạc. Họ cho rằng “tu mà cần gì Giáo hội, cần gì thầy nào cho phép, muốn tu thì tự tu cần gì chùa”. Như chúng ta biết một người phát nguyện xuất gia học đạo hiện nay đều phải tuân thủ đúng quy định như: Có đơn phát nguyện xuất gia tự tay mình viết và ký; đơn bảo lãnh của Bổn sư(trụ trì một ngôi chùa hợp pháp); lý lịch về nhân thân; có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc giấy phán quyết của tòa án khi đã ly hôn; trường hợp có vợ hoặc chồng rồi mà chưa ly hôn thì buộc phải có sự đồng ý thuận tình xuất gia của vợ hoặc chồng; trường hợp dưới 18 tuổi phải có sự đồng ý của cha mẹ; có giấy chứng nhận sức khỏe, có căn cước công dân.


    Sau khi hoàn tất các thủ tục thì Giáo hội cấp huyện chấp thuận và đề nghị Giáo hội cấp tỉnh cấp chứng nhận xuất gia lúc đó người xuất gia này chính thức là thành phần của Giáo hội, do Giáo hội quản lý về pháp nhân tu hành.


    Còn dựa trên tinh thần giới luật là nguyên tắc không thể phủ nhận đó là một người phát tâm xuất gia tu học thì phải chịu sự quản lý, dạy dỗ của Thầy Bổn sư. Từ khi vào chùa tu học thầy Bổn sư là người xem xét về tư cách và đạo hạnh, nếu thấy được mới cho cạo tóc xuất gia và Giáo hội cũng quy định rõ ràng rằng từ khi xuất gia tu học phải đủ 2 năm mới được thọ trì giới Sa-di hay Sa-di Ni nếu có hạnh tu tập chuẩn mực. Cũng theo đó mà từ khi thọ Sa-di giới đến khi thọ Tỳ-kheo giới cũng phải có tư cách oai nghi và hội đủ 2 năm và phải đủ 20 tuổi đời.

     Bổn sư là người nâng đỡ dìu dắt trong đời sống xuất gia tu học nhưng việc thọ trì giới pháp làm vị Sa-di hay thầy Tỳ-kheo phải đúng pháp, phải do các bậc Tôn túc lập giới trường truyền trao đúng theo tinh thần giới luật Phật chế định. Đó chính là truyền thống có từ thời đức Phật mà không ai có quyền phủ nhận được. Từ xưa đến nay không một ai tu tập trong Phật giáo mà bỏ qua bước xuất gia học đạo, thọ trì giới pháp, chịu khổ luyện trong một thời gian dài mới trở thành thầy Tỳ-kheo. Truyền thống của Phật giáo là vậy và duy trì mãi trong hàng ngàn năm qua chứ không phải do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tự quy định. Như ngài Lục Tổ Huệ Năng mặc dầu đã chứng đạo nhưng vẫn phải tìm thầy xuất gia và thọ trì giới pháp là một ví dụ cho chúng ta dễ hiểu hơn.


    Quay lại với vấn đề tu sĩ có quyền tu hành là điều bất khả xâm phạm. Nhưng là tu sĩ anh cũng cần phải tuân thủ giới luật, tuân thủ truyền thống của tôn giáo anh đang tu tập. Và đặc biệt tu sĩ anh cũng phải làm tròn trách nhiệm của một người công dân, tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành. Anh có quyền tự do tu tập, tự do bày tỏ tín ngưỡng mà không đúng quy định, không tuân thủ pháp luật thì hiển nhiên anh trở thành kẻ vô chính phủ hay sao?


    Nền đạo đức của tôn giáo được xây dựng trên tinh thần giới luật, sự ổn định trật tự xã hội được xây dựng trên pháp luật hiện hành. Dù là một tu sĩ bình thường hay một chức sắc lãnh đạo tối cao của Giáo hội cũng phải tuân thủ pháp luật. Không ai có quyền tự cho mình là tu sĩ nên muốn làm gì thì làm, không ai dám đụng đến mình cả. Tự do lập đạo, tự do bày tỏ tín ngưỡng, tự do tu hành bất cứ đâu, ở nơi nào dù là ngoài đường, nơi công cộng là hoàn toàn trái với pháp luật quy định.


     Cũng đừng biện minh rằng tôi tu hành không cần thầy Tổ, không cần Giáo hội công nhận, tôi chỉ lấy giới luật làm thầy của tôi thôi. Đúng, lấy giới luật làm thầy là đúng lời Phật dạy, không ai phủ nhận điều đó cả. Nhưng hãy nhớ kỹ rằng, giới luật trong Phật giáo chính là sự truyền trao từ thế hệ này qua thế hệ khác, sự truyền trao ấy từ người có giới luật, có đạo hạnh và phải đúng pháp mà trong luật quy định. Tất cả chúng ta đều phải có lòng khát ngưỡng thọ trì giới pháp và cầu sự truyền thọ của các bậc giới đức. Phủ nhận vai trò của Thầy Tổ, vai trò của Giáo hội; phủ nhận việc xuất gia, thọ trì giới pháp chính là đi ngược với truyền thống đạo đức Phật giáo.


     Dù tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam hay bất cứ tổ chức Giáo hội nào cũng đều phải y cứ vào giới luật của Phật chế định mà hình thành. Những quy định trong Hiến chương, Quy chế đều không lìa Giới luật Phật chế định mà ban hành. Vì vậy Giáo hội Phật giáo là một tổ chức hợp pháp duy nhất hiện nay có vai trò quản lý và điều hành mọi hoạt động của chư Tăng Ni và hoạt động Phật sự hiện nay.

4.    Sự triệt hạ uy tín, chống phá và chia rẽ cộng đồng Phật giáo.


     Xuyên suốt thời gian dài cộng đồng Phật giáo bao gồm cả Tăng Ni, tín đồ Phật tử là một thành phần trong khối đại đoàn kết vững chắc của dân tộc. Chư Tăng Ni, tín đồ Phật giáo luôn tích cực chung tay, phấn đấu để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, xây dựng Giáo hội ngày càng phát triển. Chính sự gắn kết Phật giáo nói chung, cụ thể là Giáo hội Phật giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc đã, đang góp phần tạo nên sức mạnh chung của toàn dân tộc, là động lực giúp đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức để hội nhập và phát triển. Điều này cũng trở thành tâm điểm cho một số phần tử cảm thấy không thích mà tìm cách chống phá, triệt hạ uy tín của Phật giáo.


    Những thế lực chống phá Phật giáo luôn đứng ngoài những xu hướng đồng hành, gắn kết với dân tộc Việt Nam của Phật giáo. Có thể một bộ phận chống phá Phật giáo còn có những động cơ riêng mà chi phối, điều khiển có những hành vi gây chia rẽ Phật giáo, tạo ra những xáo trộn, mâu thuẫn từ bên trong và làm tiền đề chống phá ở mức độ cao hơn, nguy hiểm hơn. Vấn đề tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, lợi dụng vấn đề tôn giáo hòng gây chia rẽ chính tôn giáo đó, chia rẽ giữa người theo Phật giáo và người không theo Phật giáo hoặc trong cộng đồng Phật giáo. Nhận diện rõ vấn đề này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tại sao truyền thông xã hội hiện nay chính là mục tiêu và vũ khí lợi hại nhất để chống phá và chia rẽ Phật giáo, phủ nhận vai trò của Giáo hội.

     Những năm qua, trước sự tàn phá của thiên tai, dịch bệnh, nhất là đại dịch COVID-19, Phật giáo đều đồng hành, chung tay ứng phó, khắc phục hậu quả xảy ra. Rất nhiều hình ảnh các Tăng Ni, Phật tử không quản ngại khó khăn, vất vả, nguy hiểm đến các vùng tâm dịch, vùng thiên tại để hỗ trợ người dân…Những sự cống hiến cho xã hội của Phật giáo vô số kể nhưng truyền thông không nhắc đến, ngược lại những hình ảnh tiêu cực về Tăng Ni và những phát ngôn tiêu cực thế lực chống phá Phật giáo luôn chớp lấy thời cơ và dùng truyền thông xã hội làm sức công phá.


    Để tạo ra sự đối lập, gia tăng các mâu thuẫn, bất đồng, chúng đã triệt để khai thác những vấn đề tồn tại trong lịch sử, bịa đặt, xuyên tạc về quá trình hình thành, phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chúng sẵn sàng xúc phạm danh dự, nhân phẩm của một số nhà lãnh đạo Phật giáo đóng vai trò tập hợp, quy tụ chức sắc, tín đồ Phật giáo trong nước và miệt thị đường hướng phục vụ “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Chúng xuyên tạc rằng, đó là tinh thần lệ thuộc Nhà nước của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 


    Qua hiện tượng “Sư Minh Tuệ” ôm nồi cơm điện bộ hành là cơ hội để so sánh, thậm chí có người còn lạm dụng những từ ngữ nặng nề. Những lời chỉ trích, lập luận cho rằng chỉ có “Sư Minh Tuệ” là tu đúng chánh pháp mà thôi. Không lẽ nào hàng chục ngàn Tăng Ni đang ở trong các chùa, tịnh xá, tu viện kia không tu theo chánh pháp? 


     Người học Phật, hành pháp Phật, người có cảm tình với đạo Phật cần lưu ý rằng: Hình ảnh “Sư Minh Tuệ” có thể khiến chúng ta kính trọng vì ông ấy mạnh dạn coi nhẹ tấm thân mình mà hành bộ. Cũng cần lưu ý rằng, “Sư Minh Tuệ” đã âm thầm bộ hành một số lần trong nhiều năm qua chứ không phải chỉ là bây giờ. Và chúng ta cũng cần hiểu rõ chánh pháp của Phật cũng không chỉ riêng pháp việc khất thực hay tu theo hạnh đầu đà… Còn có rất nhiều pháp môn khác được chỉ bày trong kinh điển, mà với bất cứ pháp môn nào mà chỉ cần người hành trì thực sự chuyên tâm tu tập cầu giải thoát, chắc chắn người Phật tử thành tín sẽ hết lòng kính ngưỡng, tôn trọng. 


     Rất nhiều người ngợi khen “Sư Minh Tuệ” nhưng kèm theo đó là so sánh và chỉ trích, phê phán chư Tăng Ni hiện nay. Sử dụng hình ảnh “Sư Minh Tuệ” để so sánh với những hình ảnh tiêu cực từ phát ngôn, phong cách của một số Tăng Ni, vô tình chúng ta đã tạo ra một sự đối lập, tương phản giữa hai bên, và như vậy là lôi kéo tín đồ Phật giáo vào vòng thị phi tranh cãi đó chính là sự chia rẽ cộng đồng Phật giáo thành công của thế lực ẩn mình. 


     Theo một chiều hướng khác, nhiều người lại ca tụng “Sư Minh Tuệ” như một vị thánh sống, là Phật Di-lặc ra đời… Đây là một sự sai lầm, lệch hướng nghiêm trọng. “Sư Minh Tuệ” nói rằng mình đang “tập học” thì sự tôn xưng thái quá không phải là yêu “Sư Minh Tuệ”, mà thực sự đang vô tình gây khó cho ông. Chỉ một thời gian ngắn sau khi “hiện tượng thầy Minh Tuệ” tràn ngập trên các trang mạng xã hội, nhiều hệ quả khác nhau đã phát sinh, khi các Youtuber, Tiktoker, Facebooker gần như liên tục đưa lên những hình ảnh, câu chuyện về ông, thì những ảnh hưởng rộng khắp mới bắt đầu phát sinh theo nhiều chiều hướng khác nhau.


     Chúng ta cần biết rằng những hành giả Phật giáo có sự thực hành giống như “Sư Minh Tuệ” cũng rất nhiều. Ở các nước theo truyền thống Nam tông, các vị Tỳ-kheo đều nghiêm túc duy trì truyền thống khất thực mỗi ngày, ngay cả khi họ tu tập cố định ở một trụ xứ, người thực hành viễn du để tu tập cũng không ít. Tại Thái Lan, các hành giả tu tập theo truyền thống Thiền trong rừng (Forest Tradition) của ngài Ajahn Chah cũng có nếp sống vô cùng khắc khổ, thiếu thốn nhiều tiện nghi nếu so với cuộc sống của người bình thường. Người Phật tử ở những nơi đó tuy tôn kính các vị nhưng không “bộc phát” thành một hiện tượng quá ồn ào như ta vừa chứng kiến.


     Phải khẳng định hiện tượng “Sư Minh Tuệ” chính là cơ hội để các thế lực chống phá, chia rẽ cộng đồng Phật giáo chớp lấy thời cơ tận dụng một cách triệt để qua truyền thông xã hội.


SƯU TẦM TỪ TRANG PHẬT SỰ ONLINE 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét